Khi tôi vào nhà tìm, thật may ông có nhà, đang
miệt mài với bức tranh Tam đa cho một khách hàng ở dưới Hạ Long (Quảng
Ninh). Tạm ngưng công việc, pha ấm trà, ông mở đầu câu chuyện giản
dị, chân chất của người dân quê. “Xuất ngũ năm 1976, tôi trở về làng
với hai bàn tay trắng, tham gia sản xuất nông nghiệp nhưng luôn ấp ủ
dự định khôi phục nghề truyền thống…” Lúc đó, nghề đúc đồng đã tồn tại
gần ngàn năm ở Đại Bái thực sự lâm vào tình trạng khó khăn. Người dân
làng nghề đúc
đồng Đại Bái vốn chỉ quen đúc những vật gia dụng đơn giản xoong, mâm, siêu, sanh, cơi trầu… bị cạnh tranh khốc liệt bởi đồ nhựa Trung Quốc
với giá thành rẻ, mẫu mã phong phú, nhiều người đã bỏ hẳn nghề. Năm
1988, sau mấy năm tìm học nghề ở làng đồng Ngũ Xã (Hà Nội), Đồng Sâm
(Thái Bình), ông mở xưởng tại nhà. Thiếu vốn, ông chỉ thực hiện gia
công những sản phẩm đơn giản để quay vòng đồng thời tích cóp tiền thực
hiện một số sản phẩm tinh xảo như lư, đỉnh. Bước ngoặt đến khi ông
đưa sản phẩm làng nghề tham dự Hội chợ lần đầu tiên của tỉnh Hà Bắc
“hàng mang đi bao nhiêu hết bấy nhiêu chú ạ, lãi chả bao nhiêu nhưng
đã cho tôi niềm tin rằng sản phẩm đồng Đại Bái còn chỗ đứng trong đời
sống”. Từ thành công này, ông hướng dần đến những sản phẩm tinh xảo,
có giá trị cao. Theo ông “Đó là xu thế chung, người thợ đồng chúng tôi
phải tự nâng cao tay nghề, làm ra những sản phẩm cao cấp thì mới trụ
được trong cơ chế thị trường”. Năm 2000, khi thăm làng tranh Đông Hồ,
ông nảy ra ý định đưa tranh Đông Hồ lên đồ đồng. “Ngay lúc mới nhìn
thấy những cô tố nữ thướt tha, cậu mục đồng thổi sáo trong tranh làng
Mái tôi đã say mê và ước mong đưa lên chất liệu đồng. Thật không ngờ ý
tưởng này lại mở ra một hướng đi mới cho làng đồng”. Khi mới bắt tay
vào làm, ông gặp không ít khó khăn, những nét vẽ tinh tế của tranh
Đông Hồ không dễ thể hiện trên chất liệu đồng, nhờ sự giúp đỡ của
những nghệ nhân làng tranh mà cuối cùng ông cũng thành công. Tiếp đó,
ông mở rộng phạm vi ra sản xuất tranh chữ, tranh phong cảnh theo yêu
cầu của khách. Đến giờ, tranh đồng đã trở thành một trong những mặt
hàng được ưa chuộng nhất của cơ sở gia đình ông. Thành công của ông đã
lôi kéo nhiều người cùng quay lại với nghề truyền thống, mang lại sức
sống cho làng đồng. Làng Đại Bái bây giờ đã có hàng trăm cơ sở xuất,
sản phẩm đã mở rộng ra các loại tinh xảo như chóe, tượng, phù điêu…
Sản phẩm của làng không chỉ trụ vững tại thị trường trong tỉnh mà vươn
ra những thành phố lớn như Hà Nội, Hạ Long…và bước đầu đã có mặt ở
thị trường Đài Loan và các nước Đông Nam Á.
Gần
60 tuổi đời, hơn 20 năm gắn bó với
nghề đúc đồng, những danh hiệu và giải
thưởng tại các triển lãm, các cuộc thi của nghệ nhân Nguyễn Văn Điền
rất nhiều, vừa qua sản phẩm chóe ngũ sắc của cơ sở gia đình ông được
Hiệp hội hỗ trợ phát triển tài năng Việt Nam trao tặng danh hiệu “Tinh
hoa đất Việt”. Ông có trong tay cơ ngơi gồm một xưởng đúc gần ngàn
mét vuông cùng 2 cửa hàng lớn với hơn 40 thợ, thu nhập bình quân 1,5
đến 3 triệu đồng/người/tháng nhưng hàng ngày vẫ tham gia sản xuất và
dạy nghề cho các thanh thiếu niên trong làng. Xem ông tỉ mỉ hướng dẫn
các cháu từ phương pháp phối màu để có được ngũ sắc (đen, đỏ ròng,
vàng, xanh, bạc) cho đến cách chạm một sản phẩm sao cho đúng với hồn
Việt mới thấy tình yêu nghề của ông vẫn cháy. Đến nay, có biết bao
nhiêu thế hệ thợ đồng được bàn tay ông dìu dắt, nhiều người đã thành
tài, đứng ra mở cơ sở riêng. Ông tâm sự “lớp chúng tôi tìm ra hướng
mới cho làng nghề nhưng để làng nghề phát triển thì phải do lớp trẻ.
Vì thế tôi vẫn tâm niệm phải truyền lại tất cả những gì mình biết cho
các cháu. Tôi luôn dạy các cháu, mỗi sản phẩm phải thấm được cái Tâm
của mình. Đã thành nếp, ngày nào tôi cũng phải ngồi vào bàn đục chạm một sản phẩm nào đó, mỗi lần hoàn thành một sản phẩm, tôi lại thấy
mình có thêm một niềm vui mới.”